Sửa Luật Giáo dục đại học: Đặt nền cho tương lai
10 năm sau ngày Luật Giáo dục đại học (GDĐH) ra đời, hệ thống GDĐH đã chuyển biến đáng kể. Nhưng điều còn thiếu chính là bước cất cánh thật sự. Những đổi thay chủ yếu mới dừng ở bề mặt, trong khi kỳ vọng của xã hội là một cú bứt phá để GDĐH trở thành động lực phát triển quốc gia.
Luật Giaó dục đại học sửa đổi tới đây phải định hình diện mạo giáo dục đại học Việt Nam
Vì thế, lần sửa luật tới đây phải được coi là thời khắc quyết định: vừa tháo gỡ những “nút thắt” tồn tại, vừa định hình diện mạo giáo dục đại học Việt Nam cho hai thập niên sắp tới.
Chuyển động nhiều, nhưng chưa tạo bứt phá
Luật Giáo dục đại học (có hiệu lực năm 2012, sửa đổi vào năm 2018) từng được kỳ vọng mở ra bước ngoặt: từ quản lý tập trung sang trao quyền tự chủ, từ cơ chế bao cấp sang đa dạng hóa nguồn lực, từ ưu tiên số lượng sang chú trọng chất lượng.
Trao đổi với phóng viên Báo điện tử Chính phủ, TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến - nguyên Trợ lý Bộ trưởng Bộ GD&ĐT nhìn nhận: "Luật đã mang lại những thay đổi đáng kể trên nhiều phương diện, bao gồm hoàn thiện hệ thống giáo dục đại học, phát huy quyền tự chủ, đổi mới cơ chế tài chính, phát triển giáo dục tư thục, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, bảo đảm và kiểm định chất lượng".
Nhưng ông cũng thẳng thắn chỉ ra, tất cả những chuyển động ấy, vẫn chưa tạo ra chất lượng và hiệu quả đào tạo đủ để đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước. Vấn đề nằm ở tư duy thể chế: quản lý vẫn nặng về mệnh lệnh hành chính, thiếu tinh thần kiến tạo đổi mới sáng tạo. Nói cách khác, hệ thống GDĐH của chúng ta "chuyển động" nhưng chưa "bứt phá".
TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến cho rằng Luật GDĐH 2018 (sửa đổi) đã mang lại những thay đổi đáng kể trên nhiều phương diện - Ảnh VGP/Nguyễn Mạnh
Tự chủ và quản trị: Quyền đi đôi với trách nhiệm
Một trong những trục lớn nhất của luật là tự chủ đại học. Nhưng câu hỏi vẫn còn đó: tự chủ đến đâu, giải trình thế nào?
TSKH Tiến phân tích: "Tự chủ đại học là phương thức quản lý nhằm nâng cao chất lượng đào tạo… Còn trách nhiệm giải trình là trách nhiệm cố hữu – bất cứ trường nào, tự chủ hay không, cũng phải chứng minh mình hoàn thành sứ mệnh".
Ông nhấn mạnh: "Không có chuyện xiết trách nhiệm giải trình. Điều cần là minh bạch: khi được trao quyền, nhà trường phải báo cáo kết quả, hiệu quả chi phí, chất lượng đầu ra, tỷ lệ tốt nghiệp... bằng phương pháp khoa học, dựa trên hệ thống thông tin giáo dục". Ở đây, vấn đề không phải là "giữ" hay "thả" tự chủ, mà là làm sao để xây dựng được một cơ chế kiểm chứng khách quan, công khai. Thiếu nó, tự chủ sẽ dễ trượt thành tự phát, thậm chí bị lạm dụng.
Cùng với đó, một điểm nóng khác trong quản trị đại học chính là quan hệ giữa Hội đồng trường, Ban giám hiệu và cơ quan chủ quản. Hiện nay, chủ trương chung là không tổ chức hội đồng trường trong cơ sở GDĐH công lập, thay vào đó tăng cường vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng nhằm thể chế hóa chủ trương mới của Ban Chấp hành Trung ương. Theo TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến, mấu chốt mà Luật GDĐH mới cần làm rõ chính là vai trò của Đảng ủy nhà trường – vừa với tư cách cơ quan lãnh đạo, vừa với tư cách cơ quan quản trị trong tổ chức và hoạt động của cơ sở giáo dục đại học công lập.
Cần định hình diện mạo mới cho GDĐH ở Việt Nam
Đặt lại nền móng cho phát triển: Phân tầng, xã hội hóa và chuyển đổi số
Một câu chuyện bỏ ngỏ lâu nay là phân tầng và phân loại đại học. "Dù muốn hay không, các cơ sở giáo dục đại học cũng sẽ có sự phân hóa thành những loại hình khác nhau. Trên thực tế, hiện nay các cơ sở GDĐH nước ta cũng đã có sự phân tầng thành một số ít các đại học/trường đại học định hướng nghiên cứu, còn lại phần lớn là các trường đại học định hướng ứng dụng – thực hành. Sự phân tầng này là hoàn toàn phù hợp với sự phát triển GDĐH ở các nước đang phát triển", TSKH Tiến nhận định.
Ngại phân tầng vì sợ "phân biệt đối xử" là cách tiếp cận nửa vời. Chính việc không phân tầng khiến các trường cùng chạy theo một chuẩn, dàn hàng ngang, vừa lãng phí nguồn lực, vừa làm giảm sức cạnh tranh. Trong khi đó, ở nhiều nước phát triển, hệ thống minh bạch: có trường nghiên cứu, trường ứng dụng, trường cộng đồng, trường nghề. Sự phân hóa ấy mới chính là sức mạnh tổng thể.
Nếu được luật hóa, phân tầng sẽ là cơ sở để tái cấu trúc hệ thống: minh bạch hơn, rõ định hướng hơn, tránh trùng lặp và lãng phí, đồng thời giúp mỗi cơ sở phát huy đúng lợi thế riêng. Xa hơn, nó là nền tảng để Việt Nam chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao, đủ sức cạnh tranh trong bối cảnh công nghiệp hóa và hội nhập quốc tế.
Bên cạnh đó, khái niệm "xã hội hóa" lâu nay nhiều khi bị hiểu lệch thành "thương mại hóa". Theo Luật Giáo dục, xã hội hóa là sự cộng hưởng trách nhiệm giữa Nhà nước và toàn xã hội, trong đó Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Nhưng thực tế, xã hội hóa đôi lúc chỉ còn được hiểu giản đơn là "tư nhân tăng học phí để giảm gánh ngân sách". Để kéo xã hội hóa trở về đúng bản chất, TSKH Tiến nhấn mạnh ba nguyên tắc "vàng":
Vì lợi ích cộng đồng: Mọi hoạt động xã hội hóa phải phục vụ lợi ích chung, không để lợi ích nhóm chi phối.
Minh bạch, giải trình: Mọi nguồn lực huy động phải công khai, có trách nhiệm trước xã hội.
Công bằng, bình đẳng: Xã hội hóa phải đi cùng các chính sách hỗ trợ người học khó khăn, để không tái sản sinh bất bình đẳng.
Thế giới đã bước vào kỷ nguyên giáo dục mở, học tập suốt đời, kết nối xuyên biên giới. Trong bối cảnh đó, chuyển đổi số và hội nhập quốc tế không chỉ buộc các trường đổi cách dạy, cách công nhận văn bằng, mà là đòi hỏi phải thay đổi toàn bộ mô hình nhà trường.
TSKH Tiến khẳng định: "Chúng ta phải chuyển từ nhà trường truyền đạt kiến thức trong khuôn viên vật lý sang một hệ sinh thái học tập mở, thông minh, cá nhân hóa, kết nối toàn cầu".
Do vậy, câu chuyện không phải là Luật GDĐH mới sẽ mở thêm "cánh cửa" nào, mà là nó sẽ dựng lên một khung pháp lý đủ mạnh để dẫn dắt toàn bộ hành trình chuyển đổi số và hội nhập ấy.
Dấu mốc 2030-2045: Cơ hội không được bỏ lỡ
Tầm nhìn quốc gia đã được xác định: Năm 2030, Việt Nam trở thành nước thu nhập trung bình cao; năm 2045, là quốc gia phát triển, thu nhập cao. Nếu vậy, GDĐH không thể chỉ đi cùng nhịp độ, mà phải đi trước, làm động lực dẫn đường.
TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến nhấn mạnh: "Mục tiêu chiến lược chỉ thực sự có ý nghĩa khi gắn với kết quả cụ thể: đến năm 2030, giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực châu Á; và đến năm 2045, sánh ngang các nền giáo dục tiên tiến hàng đầu thế giới".
Để làm được điều đó, lần sửa Luật GDĐH này không thể chỉ dừng lại ở chỉnh sửa kỹ thuật. Đây phải là một cuộc cải cách thể chế toàn diện: trao quyền tự chủ đi kèm trách nhiệm giải trình; tái cấu trúc hệ thống qua phân tầng rõ ràng; thúc đẩy xã hội hóa nhưng vẫn giữ vững bản chất công cộng; và kiến tạo khung pháp lý cho chuyển đổi số – hội nhập.
Nếu làm được, giáo dục đại học Việt Nam sẽ trở thành lực đẩy mạnh mẽ cho khát vọng phát triển đất nước. Nhưng nếu bỏ lỡ, chúng ta sẽ mãi chỉ trong thế bị động "chạy theo", thay vì trở thành lực lượng "dẫn dắt" sự phát triển quốc gia.
Thu Trang
(theo baochinhphu.vn)
Nguồn: https://baochinhphu.vn/sua-luat-giao-duc-dai-hoc-dat-nen-cho-tuong-lai-102250821220732995.htm
Bài viết cùng chuyên mục
- Điểm chuẩn cao nhất các ngành sư phạm 2025: Xu hướng và góc nhìn
- Miễn học phí và hóa giải nỗi lo "phụ phí"
- Bộ Giáo dục và Đào tạo điều chỉnh kế hoạch xét tuyển và lọc ảo tuyển sinh đại học, cao đẳng năm 2025
- Sửa đổi Luật Giáo dục: Các chính sách phải công bằng trong tiếp cận giáo dục
- Kiểm định bắt buộc chương trình đào tạo đặc thù
- Quảng Ngãi dự kiến bố trí 935 tỷ đồng đầu tư xây dựng trường học cho các biên giới
- "Địa phương hỏi - Bộ GD&ĐT trả lời" thắc mắc trong phân cấp quản lý giáo dục